Bệnh giun lươn do nhiễm giun lươn Strongyloides stercoralis (2 – 2,5 x 30 – 50 mm). Các triệu chứng chính của bệnh là do sự ký sinh của giun trưởng thành, chủ yếu ở tá tràng và hỗng tràng, hoặc do ấu trùng di trú qua phổi và các tổ chức dưới da. Vật chủ chính là người, nhưng chó, mèo và các động vật linh trưởng đã được thấy bị nhiễm các dòng giun không khác biệt với các dòng giun gây bệnh ở người.
Nhiễm giun lươn lưu hành ở các vùng nhiệt đói và cận nhiệt đới; mặc dù tỷ lệ mắc nói chung thấp, ở một số nơi tỷ lệ này lên trên 25%. Ở các vùng ôn đới, bệnh xuất hiện lẻ tẻ. Ở Hoa Kỳ, tỷ lệ nhiễm bệnh cao nhất được tìm thấy ở những người nhập cư từ các vùng dịch tễ, tại một số nơi ở Appalachia, và ở một số vùng phía Đông Nam Puerto Rico. Nhiều trường hợp nhiễm trong cùng gia đình là hiện tượng phổ biến, và tỷ lệ nhiễm trong các cơ sở tập trung, nhất là các trung tâm tâm thần, có thể lên cao. Bệnh cũng gặp nhiều ở những người suy giảm miễn dịch.
Giun lươn có khả năng độc đáo duy trì vòng đời cả trong vật chủ là người, và trong đất. Nhiễm bệnh xảy ra khi các ấu trùng dạng sợi trong đất xâm nhập qua da, đi vào vòng tuần hoàn, và được đưa đến phổi; tại đây chúng đi ra khỏi mao mạch và đi vào các phế nang, theo hệ thống phế quản đi lên họng. Các ấu trùng sau đó được nuốt vào và đưa đến tá tràng và phần trên hồi tràng, phát triển thành giai đoạn trưởng thành. Giun cái, với bản chất đẻ ra trứng, trưởng thành và sống ẩn trong niêm mạc; tại đây trứng giun được đẻ ra và nở. Các ấu trùng dạng thoi không xâm nhiễm nở ra và di chuyển vào lòng ruột để theo phân ra khỏi cơ thể chủ. Thời gian sống của giun trưởng thành có thể kéo dài đến 5 năm.
Trong đất, các ấu trùng dạng thoi biến đổi thành các ấu trùng gây bệnh (dạng sợi). Tuy nhiên, giun cũng có một vòng đời sống tự do trong đất, khi một số ấu trùng dạng thoi phát triển thành giun trưởng thành và đẻ trứng, nở thành các ấu trùng dạng thoi và tiếp tục vòng đời.
Tình trạng tự nhiễm ở người, một hiện tượng có lẽ xuất hiện với tỷ lệ thấp ở phần lớn các bệnh nhân là một yếu tố quan trọng xác định số lượng giun và là nguyên nhân duy trì sự tồn tại của bệnh. Tình trạng tự nhiễm nội sinh diễn ra ở phần dưới của ruột, khi một số ấu trùng dạng thoi phát triển thành ấu trùng dạng sợi, xâm nhập niêm mạc ruột, đi vào các mạch bạch huyết ruột và tuần hoàn cửa, được mang đến phổi, và quaỳ trở lại ruột non để hoàn thành chu trình. Quá trình này tăng khi có các hiện tượng làm giảm nhu động ruột như không có acid dịch vị, táo bón, túi thừa ruột và các tình trạng khác làm giảm nhu động ruột. Ngoài ra, vòng tự nhiễm ngoại sinh có thể xuất hiện do nhiễm phân ở vùng rìa hậu môn.
Trong hội chứng nhiễm giun nặng, tình trạng tự nhiễm tăng lên đáng kể, dẫn đến tăng rõ rệt số lượng giun trong ruột, sự di trú đông đúc của các ấu trùng dạng sợi đến phổi và hầu hết các tổ chức khác gây các phản ứng viêm tại chỗ và sự hình thành u hạt. Đôi khi, ở phổi và một vài nơi khác, các ấu trùng biến đổi thành giun trưởng thành. Các ấu trùng dạng sợi xâm nhập qua thành ruột có thể gây nhiễm trùng huyết do vi khuẩn hoặc nấm, và viêm màng não. Tình trạng nhiễm giun nặng nói chung xuất hiện khi có các bệnh gây suy giảm miễn dịch tế bào ở vật chủ, nhất là ở những người suy kiệt, thiếu dinh dưỡng, và bệnh nhân ung thư máu hoặc u lympho, những người điều trị thuốc ức chế miễn dịch, nhất là hóa trị liệu hoặc corticosteroid. Mặc dù hội chứng nhiễm giun nặng hiếm gặp trong AIDS, những bệnh nhân này từng có bệnh diễn biến kéo dài rất khó chữa.